Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Song Nhân dân ta chưa kịp hưởng trọn vẹn niềm vui độc lập, tự do thì thực dân Pháp đã quay lại xâm lược Đông Dương. Sau nhiều nỗ lực ngoại giao - trong đó Chính phủ Việt Nam đã ký với Chính phủ Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 - với mong mỏi bảo vệ nền hòa bình nhưng bất thành, dân tộc Việt Nam đã một lần nữa đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc. Với tinh thần quật cường “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, trải qua vô vàn gian khổ, hy sinh, đến cuối năm 1953 cùng với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao.
Tại Pháp, trước cuộc chiến hao người tốn của kéo dài ở Đông Dương, tháng 10/1953, Quốc hội Pháp đã biểu quyết ủng hộ Chính phủ giải quyết chiến tranh bằng thương lượng, đàm phán trực tiếp với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, điều kiện là dù có đàm phán thì nước Pháp cũng phải trên thế mạnh. Song, Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tuyên bố: “Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì Nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình, thì Nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”. Thế nhưng, điều tiên quyết hay “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”; đồng thời “việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa với Chính phủ Pháp” (ngày 26/11/1953).
Lúc bấy giờ trên thế giới, xu thế các nước lớn bắt đầu thỏa hiệp và muốn giải quyết các xung đột, chiến tranh bằng thương lượng hòa bình. Ngày 25/1/1954, Hội nghị Ngoại trưởng các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp tại Béclin (Đức). Ngày 18/2/1954, các bên thỏa thuận sẽ triệu tập Hội nghị quốc tế ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đến ngày 26/4/1954, Hội nghị Giơnevơ khai mạc để bàn về một giải pháp chính trị ở Triều Tiên. Lúc này, lợi thế trên chiến trường Đông Dương đang nghiêng về phía quân ta, khi chiến dịch Điện Biên Phủ đã đi được 2/3 chặng đường và quân Pháp ở Tập đoàn cứ điểm lâm vào tình thế nguy khốn. Song các nước phương Tây vẫn chưa chấp nhận sự có mặt của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên bàn đàm phán. Đến ngày 1/5/1954, quân ta mở đợt tấn công thứ 3 vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đặt thực dân Pháp trước thất bại không thể cứu vãn. Do đó, ngày 2/5/1954, Anh, Pháp, Mỹ đã thông báo qua Liên Xô về việc chấp nhận sự có mặt chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Giơnevơ.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, thì ngày 8/5/1954 Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận về vấn đề Đông Dương. Hội nghị có sự tham gia của 9 bên, bao gồm: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quốc gia Việt Nam, Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Hội nghị trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ 8/5/1954 đến 19/6/1954) do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn, chủ yếu là do sự hiếu chiến của các nước phương Tây, nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm. Phải đến khi nội các Thủ tướng Laniel do phái chủ chiến chi phối bị Quốc hội Pháp đánh đổ và ngày 19/6/1954, Mendès France lên cầm quyền, hứa với Quốc hội Pháp trong vòng 1 tháng sẽ giải quyết xong vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, thì mới từng bước phá vỡ thế bế tắc, thúc đẩy tiến độ đàm phán.
Giai đoạn 2 (từ 20/6/1954 đến 10/7/1954), hầu hết các trưởng đoàn về nước báo cáo, chỉ có Trưởng đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở lại. Các Quyền trưởng đoàn đã tổ chức các cuộc họp hẹp và họp Tiểu ban quân sự Việt - Pháp bàn vấn đề tập kết, chuyển quân, thả tù binh và việc đi lại giữa hai miền. Trong đó, vấn đề phân định vĩ tuyến tại Việt Nam trở thành nội dung đàm phán chính. Song nhìn chung, các cuộc họp hẹp cũng không có tiến triển đáng kể.
Đến giai đoạn 3 (từ ngày 11 - 21/7/1954) các phiên họp chủ yếu đàm phán, thỏa thuận về phân chia vĩ tuyến làm ranh giới tạm thời; thông qua các văn kiện, các điều khoản thi hành hiệp định. Trong đó, các cuộc đàm phán về phân chia vĩ tuyến diễn ra rất căng thẳng, khi Pháp khăng khăng vĩ tuyến 18, còn Việt Nam kiên quyết vĩ tuyến 16. Đến phiên họp chiều tối ngày 20/7/1954, các bên mới đi đến thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Ngoài ra, các vấn đề quan trọng khác như thời hạn 2 năm tổng tuyển cử, các hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào và Campuchia... đều diễn ra trong thế giằng co giữa các bên.
“Cuộc chiến” giằng co trên bàn đàm phán kéo dài suốt 75 ngày đêm, với 31 phiên họp bao gồm các phiên họp toàn thể, phiên họp cấp trưởng đoàn và nhiều cuộc tiếp xúc song phương, đa phương. Đến ngày 21/7/1954, Hội nghị Giơnevơ về hòa bình ở Việt Nam, Lào, Campuchia chính thức kết thúc, với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ.
Thắng lợi to lớn
Hiệp định Giơnevơ đã quy định rõ các thỏa thuận chung cho ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, đó là (1) Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của Nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước; không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước. (2) Đình chỉ chiến sự trên toàn cõi Đông Dương. (3) Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia. (4) Không có căn cứ nước ngoài và không liên minh quân sự với nước ngoài. (5) Tổng tuyển cử ở mỗi nước. (6) Không trả thù những người hợp tác với đối phương. (7) Trao trả tù binh và người bị giam giữ. (8) Thành lập Ủy ban liên hợp, Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế.
Còn đối với riêng Việt Nam, Hiệp định Giơnevơ cũng ghi rõ: (1) Những điều khoản về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập kết, chuyển quân được hai bên thực hiện trong thời hạn 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh và thường dân bị giam giữ, đổi vùng, vấn đề mồ mả quân nhân hai bên tham chiến. (2) Những điều khoản về duy trì và củng cố hòa bình ở Việt Nam: lập giới tuyến quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải); không coi vĩ tuyến 17 là ranh giới chính trị hay lãnh thổ; cấm tăng viện nhân viên quân sự, bộ đội, vũ khí và dụng cụ chiến tranh khác vào Việt Nam; cấm xây dựng căn cứ quân sự mới; cấm hai miền không được gia nhập liên minh quân sự nào; cấm sử dụng mỗi miền để phục vụ cho bất kỳ chính sách quân sự nào. (3) Những điều khoản chính trị: vấn đề tổng tuyển cử để thống nhất đất nước; hiệp thương hai miền vào tháng 7/1955, tổng tuyển cử vào tháng 7/1956; tự do chọn vùng sinh sống; trong khi chờ đợi không khủng bố, trả thù hay phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với đối phương trong thời gian chiến tranh. (4) Những điều khoản quy định việc tổ chức thi hành Hiệp định: Ủy ban kiểm soát liên hợp, Ủy ban giám sát quốc tế trung lập.
Có thể khẳng định, Hiệp định Giơnevơ không chỉ là một văn kiện ngoại giao đặc biệt quan trọng; mà còn là một thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam trên tiến trình đấu tranh lâu dài, gian khổ để đi đến độc lập, tự do đích thực. Theo kết luận của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (năm 1988), việc “ký Hiệp định Giơnevơ là đúng lúc, kết thúc kháng chiến chống Pháp là phù hợp, phản ánh đúng so sánh lực lượng trên chiến trường và hoàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ”. Bởi, cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, Hiệp định Giơnevơ đã đặt dấu chấm hết cho tham vọng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trên toàn cõi Đông Dương. Từ đây, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng để xây dựng CNXH và trở thành hậu phương lớn, thành điểm tựa vững chắc cho công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Đặc biệt, Hiệp định Giơnevơ là sự khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. Đó là phát huy chiến thắng trên chiến trường, phát huy sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc nhưng mềm dẻo về sách lược, từ đó giành được những kết quả quan trọng trên bàn đàm phán. Đến nay, dù đã qua 7 thập kỷ, nhưng ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm quý báu từ mặt trận đấu tranh ngoại giao năm ấy, vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Đó là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; kiên định về nguyên tắc, linh hoạt, mềm dẻo về sách lược, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đó là xem việc tăng cường tiềm lực, nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước là yếu tố nội sinh mang tính quyết định, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động đối ngoại để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đó là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và công lý cũng như Nhân dân thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là phát huy vai trò của công tác đối ngoại, tăng cường đối thoại, sử dụng biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp, xung đột trong quan hệ với các nước, bảo đảm phù hợp với luật pháp quốc tế; ra sức giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định vì lợi ích của Nhân dân Việt Nam và Nhân dân thế giới.